hoàn cảnh sáng tác bài thơ ông đồ
Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú; 4 câu thơ đầu đặc tả sự vất vả của người phụ nữ - người vợ thời xưa; II. Thân bài. 1. Hai câu đề. Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội "mom sông"
không thiếu những tràng giang - huy cận; ông đồ - vũ đình liên, đất nước - nguyễn đình thi, núi đôi - văn cao, tây tiến - quang dũng, người về - hoàng hưng, cuộc bình chọn do trung tâm văn hóa doanh nhân và nhà xuất bản giáo dục phối hợp tổ chức đã góp phần tôn vinh những sáng tác nổi bật của một thế kỷ thi ca việt nam. 100 bài thơ, chia đều …
Bài thơ Sang thu Tác giả Hữu Thỉnh - Download.vn. Hoàn cảnh sáng tác. Bài thơ sáng tác năm mùa thu năm 1977, in trong tập Từ chiến hào đến thành phố. Trần Gia Hưng tốt nghiệp trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn chuyên ngành viết văn.
- phong cách sáng tác: + Văn bao gồm luận: nguyễn trãi là công ty văn bao gồm luận kiệt xuất, phần nhiều tác phẩm văn chính luận của ông có vấn đề vững chắc, lập luận nghiêm ngặt với giọng điệu linh hoạt + đường nguyễn trãi là bên thơ trữ tình sâu sắc. II. Tác phẩm. 1.
Sơ đồ tư duy Tức cảnh Pác Bó ngắn gọn. Sơ đồ tư duy Bài ca ngắn đi trên bãi cát lớp 11. Sơ đồ tư duy tác phẩm Việt Bắc của Tố Hữu. Sơ đồ tư duy truyện Tấm Cám ngắn gọn. Donate: Chúng mình cần sự giúp đỡ của bạn để Giaitoan8.com tiếp tục duy trì và phát triển
→ Thông tin chung về bài thơ: nhan đề bài thơ, tên tác giả, hoàn cảnh sáng tác - Tìm những thông tin ấy ở đâu? Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một bài thơ ngũ ngôn bình dị mà cô đọng, đầy gợi cảm. Qua những câu thơ, giấy, mực nghiên là những vật vô tri, vô
- Tác phẩm khắc họa thành công hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp người dần đi vào quá khứ, khơi gợi được niềm xúc động tư vấn của nhiều độc giả 4. Giá trị nghệ thuật - Bài thơ được viết theo thể thơ ngụ ngôn gồm nhiều khổ
Hoàn chình ảnh chế tạo bài xích thơ Đồng chí - Bài thơ "Đồng chí" được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khoản thời gian tác giả tsi mê gia chiến dịch Việt - Bắc thu đông (1947). Bài thơ là hiệu quả từ những những hiểu biết của người sáng tác về thiết thật cuộc sống với chiến đấu của bộ team ta
tranitmitcheck1985. Câu hỏi Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồCó thể bạn quan tâm Phân tích đoạn thơ sau trong bài Đất nước Em ơi em…. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Sơ đồ tư duy phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng hay nhất Các công thức giải bất phương trình lớp 10 List công thức nhuộm màu nâu tây ánh rêu Sơ đồ tư duy bài Viếng lăng Bác lớp 9 ngắn gọn nhất Lời giải – Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho nền Hán học và chữ nho bị mất vị thế vốn có của nó. Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, nền văn hóa dân tộc có nguy cơ bị sụp đổ. Điều này kéo theo vị thế của các nhà nho cũng bị sụt giảm theo, từ chỗ là “linh hồn” của nền văn hóa truyền thống dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng bóng. – Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Trong những năm cuối thế kỉ XIX, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ XX, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp Tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, vô tâm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Hoa. Các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về bài thơ Ông đồ nhé! 1. Tác giả Vũ Đình Liên a. Cuộc đời – Vũ Đình Liên 1913 – 1996. – Quê quán Quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội. – Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới. Xem Thêm Giải vở bài tập Địa 7b. Sự nghiệp văn học – Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học. – Tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc… – Phong cách sáng tác Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng. 2. Giá trị nội dung bài thơ Ông đồ Bài thơ Ông đồ với hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, thể hiện sâu sắc với tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm thương cảm, nuối tiếc của tác giả với nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Giá trị nghệ thuật bài thơ Ông đồ – Thể thơ 5 chữ, kết hợp với ngôn ngữ bình dị và súc tích – Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi – Kết cấu độc đáo, đầu cuối tương ứng Xem Thêm Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ – Sử dụng biện pháp nhân hóa kết hợp với việc lựa chọn hình ảnh giản dị nhưng mang tính biểu tượng Theo dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lui vào dĩ vãng mịt mờ, để lại cho con người bao nỗi niềm tiếc nuối. Nhất là khi những vẻ đẹp tài hoa một thời chỉ còn vang bóng. Cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy, bài thơ Ông Đồ thể hiện một hoài niệm day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp tàn lụi. Bài thơ là tấm gương phản chiếu cho hồn thơ giàu lòng thương người và hoài cổ của Vũ Đình Liên. Được ra đời trong phong trào Thơ mới, nhưng bài thơ thoát khỏi hai trục cảm xúc chính thời bấy giờ là tình yêu và thiên nhiên. Trong lúc những nhà thơ lãng mạn đang chìm đắm trong cái tôi cá nhân, muốn vẽ nên hiện thực mà họ muốn có, say sưa trong mộng ảo thì Vũ Đình Liên – một trí thức tây học trong lúc sững người, ngoảnh đầu quay lại phía sau đã bất chợt nhận ra “cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời”. Ông đồ – hình ảnh cuối cùng của nền Nho học đã từng tồn tại trong suốt một ngàn năm phong kiến Việt Nam. Sự trượt dốc của nền Nho học đã kéo theo cả một lớp người trở thành nạn nhân đau khổ. Ông đồ của Vũ Đình Liên là một chứng tích cho một vẻ đẹp không bao giờ trở lại. Là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người và vì thế chưa mất đi hoàn toàn, nhất là đối với những con người có tâm trạng hoài niệm cho vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao quý không còn vị trí, phải ra tận vỉa hè, đường phố, đã trở thành một món hàng… con người ta mới thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời. Tâm sự ấy đã được thể hiện trong bài thơ tạo nên sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua. Ở đó là những hình ảnh, ấn tượng đã hằn sâu trong kí ức của chàng thanh niên còn rất trẻ. Là sự tuần hoàn của hoa đào, của ông đồ, của mực tàu, giấy đỏ tạo nên một nét riêng thiêng liêng của không gian văn hoá dân tộc khi Tết đến, xuân về. Nhưng ta không khỏi chạnh lòng trước cảnh ông đồ phải sống lay lắt trên con đường mưu sinh của mình. Vẻ già nua đáng thương hay là đạo học sắp suy tàn? Trớ trêu thay, nơi ông có thể níu giữ vẻ đẹp văn hoá, nơi ông có thể kiếm sống lại là “bên phố đông người qua”. Hình bóng lẻ loi, cô độc của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng. Trong dòng đời hối hả trôi, hiện lên hình ảnh ông đồ đang gò trên từng con chữ tài năng và tâm huyết của một đời người ngay giữa chợ đời Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay. Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự chống chọi vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên khi ngày đã sắp tàn. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới đau đớn làm sao. Trong từng người ấy, có ai thật sự cảm thấy xót xa cho sự xuống cấp thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần được đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất? Dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày Tết và nét chữ “như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhưng tránh sao khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? Nhưng cái danh dự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu. Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng “Mỗi năm mỗi vắng”. Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Và càng đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ tư thì còn lại cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh lạnh lẽo Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay. Bằng hi vọng mong manh còn lại, chút gắng gỏi vì miếng cơm manh áo, ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi đợi. Nhưng đáp lại sự đợi chờ vô vọng đó là những dáng tấp nập qua lại của mọi người, hờ hững, quên đi sự hiện diện của ông. Giữa cái ồn ào, náo động xung quanh là bóng dáng cô độc của ông đồ. Sự đối lập giữa ông đồ và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm. Giữa không gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư có khác chăng Nguyễn Khuyến trước kia “tựa gối ôm cần lâu chẳng được”. Từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi trên giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho con người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương tri của mỗi người. Không gian hoang vắng đến thê lương. Bất chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của Yến Lan trong Bến My Lăng “Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách”. “Lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm đẫm nỗi buồn. “Lá vàng rơi”, cũng như số phận hẩm hiu của ông đồ đã đến hồi kết thúc. Vậy là đến đây bài viết về Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website
Tác giả tác phẩm lớp 8 Ông Đồ Vũ Đình LiênBài thơ Ông Đồ Vũ Đình Liên - Nội dung bài thơ, Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm được VnDoc gửi tới các bạn bao gồm các thông tin cơ bản về bài thơ Ông đồ như Nội dung tác phẩm, Hoàn cảnh sáng tác.... Hi vọng thông qua tài liệu này, các em sẽ nắm được những kiến thức cơ bản, từ đó dễ dàng vận dụng làm các đề văn liên quan tới tác phẩm một cách dễ dàng tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênSoạn Văn 8 bài Ông đồ Vũ Đình LiênPhân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ "Ông đồ"Bài thơ Ông Đồ Vũ Đình LiênNội dung bài thơ Ông ĐồMỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực Tàu, giấy đỏBên phố đông người quaBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tài“Hoa tay thảo những nétNhư phượng múa, rồng bay”Nhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầu...Ông đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài trời mưa bụi bayNăm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?I. Đôi nét về tác giả Vũ Đình Liên- Vũ Đình Liên 1913 - 1996- Quê quán Quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác+ Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới+ Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học- Phong cách sáng tác Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng- Tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…II. Đôi nét về bài thơ Ông Đồ1. Hoàn cảnh sáng tác- Từ đầu thế kỉ XX, nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vì trong đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam, có lẽ vì đó mà hình ảnh những ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người Bố cụcChia làm 3 phần- Phần 1 hai khổ thơ đầu Hình ảnh ông đồ thời Nho học còn thịnh hành, thịnh thế- Phần 2 hai khổ tiếp theo Hình ảnh ông đồ khi Nho học suy vi lụi tàn- Phần 2 Tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm3. Giá trị nội dung- Tác phẩm khắc họa thành công hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp người dần đi vào quá khứ, khơi gợi được niềm xúc động tư vấn của nhiều độc giả4. Giá trị nghệ thuật- Bài thơ được viết theo thể thơ ngụ ngôn gồm nhiều khổ- Kết cấu đối lập đầu cuối tương ứng, chặt chẽ- Ngôn từ trong sáng bình dị, truyền cảmIII. Dàn ý phân tích bài thơ Ông ĐồI/ Mở bài- Khái quát về tác giả Vũ Đình Liên, một nhà thơ nổi bật với thiên hướng văn chương mang nặng nỗi tiếc thương và sự hoài niệm quá khứ- Giới thiệu bài thơ Ông đồ Một trong những bài thơ bình dị mà cảm động, nhìn vào đó, mỗi người sẽ có cảm giác “sám hối...với lớp người đang đi về cõi chết”- ông đồII/ Thân bài1. Hình ảnh ông đồ thời Nho học thịnh hành- Thời gian Mùa xuân với hoa đào nở- Hành động bày mực tàu, giấy đỏ - công cụ chủ yếu của các nhà nho- Địa điểm Bên phố đông người ⇒ sự đông vui, náo nhiệt lúc xuân về⇒ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi dịp tết đến xuân về thưởu xưa- “Bao nhiêu người thuê viết....khen tài” Sự thịnh thế của Hán học, các nhà Nho khẳng định vị trí của mình trong lòng người, đó là những con người được ngưỡng mộ vì tài năng, học vấn⇒ Góp phần không nhỏ khắc gợi không khí náo nhiệt truyền thống, nét văn hòa không thể bỏ qua của mùa xuân trong tâm thức cổ truyền của dân tộc⇒ Nhịp thơ nhanh ⇒ giữa không khí náo nức, ông đồ như một người nghệ sĩ, mang hết tài năng của mình hiến cho cuộc đời2. Hình ảnh ông đồ khi Nho học lụi tàn- “Nhưng mỗi năm mỗi vắng” từ “nhưng” tạo bước ngoặt trong cảm xúc người đọc, sự suy vi ngày càng rõ nét, người ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng, day dứt nhất- “Người thuê viết nay đâu?” câu hỏi thời thế, cũng là câu hỏi tự vấn⇒ Sự đối lập của khung cảnh với 2 khổ đầu ⇒ nỗi niềm day dứt, vẫn ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy xuất hiện nhưng không cần ai thuê viết, ngợi khen- “Giấy đỏ ...nghiên sầu” Hình ảnh nhân hoá, giấy bẽ bàng sầu tủi, mực buồn động trong nghiên hay chính tâm tình của người nghệ sĩ buồn đọng, không thể tan biến được- “Lá bàng...mưa bị bay” Tả cảnh ngụ tình nỗi lòng của ông đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Lá vàng rơi gợi sự cô đơn, tàn tạ, buồn bã, mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo ⇒ tâm trạng con người u buồn, cô đơn, tủi phận3. Tình cảm của nhà thơ- Thời gian Mùa xuân với hoa đào nở lại sự lặp lại tuần hoàn của cảnh thiên nhiên- Hình ảnh “Không thấy”, phủ nhận sự có mặt của một người đã từng trở thành niềm ngưỡng vọng⇒ Kết cấu đầu cuối tương ứng làm nổi bật chủ đề bài thơ- “Những người muôn năm cũ...bây giờ?” Câu hỏi đặt ra dường như không phải để tìm một câu trả lời, đó như một niềm than thân, thương phận mình.⇒ Câu hỏi tu từ nhằm bộc lộ niềm tiếc thương, day dứt hết sức chân thành của tác giả trước sự suy vi của Nho học đương thờiIII/ Kết bài- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ Khắc họa thành công hình ảnh ông đồ và câu chuyện về cuộc đời của người nghệ sị Nho học với kết cấu chặt chẽ, ngôn từ gợi cảm...- Liên hệ bài học hiện nay Giữ gìn những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thốngIV. Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên1. Mở bàiGiới thiệu tác giả Vũ Đình Liên và bài thơ Ông ý học sinh hình thành mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân Thân bàia. Khổ thơ 1Khung cảnh mùa xuân về, hoa đào nở, ông đồ bày mực tàu giấy đỏ trên phố tấp nập.“Mỗi, lại” thể hiện sự lặp đi lặp lại, luân phiên như một lẽ thường tình của cuộc sống.→ Một nét văn hóa truyền thống từ lâu đời của nhân dân ta được lưu giữ và trân trọng mỗi dịp tết đến xuân về. Trước sự nhộn nhịp của không gian ngày tết, hình ảnh ông đồ và cảnh viết chữ trở thành một đặc trưng không thể thiếu.→ Tầm quan trọng của nhân vật ông đồ trong đời sống văn hóa của con người mỗi dịp tết đến xuân Khổ thơ 2“Bao nhiêu người thuê viết” thể hiện sự đông đúc, tấp nập, hào hứng của con người trước cảnh viết chữ của ông năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngưỡng mộ, tấm tắc khen ngợi và kính trọng. Khung cảnh cho chữ hiện lên trước mắt bạn đọc vô cùng nhộn nhịp, tấp nập, hào hứng và vui chữ của ông đồ được người đời tấm tắc khen ngợi “như phương múa rồng bay” thể hiện niềm tin yêu, sự hi vọng của con người vào một năm mới an khang thịnh vượng, vạn sự tốt đẹp.→ Khổ thơ lột tả sự ngưỡng mộ, bái phục của con người trước tài năng viết chữ của ông đồ đồng thời thể hiện niềm hi vọng của con người về một năm mới tốt Khổ thơ thứ 3Khung cảnh tấp nập khi xưa đã không còn, sự trân trọng cùng những lời ngợi khen cũng phai mờ theo năm tháng. Cái còn lại chỉ là không khí vắng lặng đến nao lòng. Xót xa đến nỗi nhà thơ phải thốt lên "Người thuê viết nay đâu".Nhà thơ đã sử dụng khéo léo những hình ảnh mang tính biểu tượng Giấy vốn đỏ thắm rực rỡ là vậy, nay cũng trở nên nhạt nhòa, ảm đạm. Mực khi xưa sóng sánh bay lượn theo từng nét chữ, nay lại lẳng lặng lắng đọng. Những sự vật vốn vô tri vô giác, trước thực tại hoang tàn cũng mang nặng tâm trạng "buồn", "sầu". Nỗi niềm đồng cảm, xót thương kín đáo mà vô cùng bi Khổ thơ thứ 4Những con người từng ở vị trí cả xã hội tôn kính khi xưa vẫn ở đó, vẫn tiếp tục công việc của mình, không hề đổi thay. Nhưng thời thế biến chuyển, ông đồ rơi vào hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Con người vẫn tĩnh tại, nhưng lòng người đã không còn vẹn người tấp nập ngược xuôi lại không ai nguyện ý dừng chân ngoái lại, vô tình đến đau lòng. Hình ảnh của ông đồ đã trở nên nhạt nhòa đến mức vô hình "ngồi đó" nhưng "không ai hay", cô độc, lạc lõng cùng Khổ thơ cuốiHoa đào vẫn nở rộ, nhưng nho học đã hết thời, ông đồ cũng không thấy nữa. Ông đồ đã hoàn toàn biến mất trong bức tranh. Là do lòng người đổi thay, là do thời gian xóa nhòa hay nét đẹp truyền thống không được giữ gìn đã mất?Câu hỏi tu từ cuối cùng vang lên bày tỏ tấm lòng xót thương vô hạn cho giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những người đã hết lòng giữ gìn nét đẹp ấy.→ Có thể nói, Vũ Đình Liên đã tạo dựng cho ba khổ thơ giá trị nội dung lẫn nghệ thuật vô cùng thành công. Tất cả phối hợp với nhau tạo nên cho đoạn thơ nghệ thuật đặc sắc. Để rồi qua đó gửi gắm nỗi hoài niệm xót thương của nhà thơ với ông đồ, niềm tiếc nuối cho sự mai một của nền văn hóa dân Kết bàiKhái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về bài thơ Ông đồMỗi dịp tết đến xuân về, trong mỗi chúng ta không khỏi thổn thức, có những tục lệ tốt đẹp đang dần bị mai một đi, trong đó phải kể đến tục cho chữ. Tác giả Vũ Đình Liên đã tái hiện thành công ý nghĩa này qua bài thơ Ông đồ. Bài thơ kể về câu chuyện ông đồ những năm tháng ngày xưa được xã hội và mọi người tôn trọng, kính mến, mỗi năm tết đến xuân về lại bày mực viết chữ với đường nét đẹp đẽ. Nhưng càng ngày khi xã hội càng phát triển, con người lãng quên đi ông và không còn tôn vinh tục xin chữ nữa, ông đồ bơ vơ giữa đất trời lúc xuân về. Bài thơ nói về tục cho chữ trong bản sắc văn hóa dân gian, vốn là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta nhưng đang bị con người lãng quên và mai một đi. Sự mai một này là niềm tiếc nuối cho bao thế hệ con người không chỉ lúc đấy mà còn đến cả thế hệ sau này. Bài thơ với những ý nghĩa sâu xa đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Mỗi chúng ta hãy biết bảo vệ những tục lệ truyền thống tốt đẹp của đồng bào, dân tộc ta để dù cho đất nước, xã hội có phát triển thế nào cũng không bị mai một đi và con cháu thời sau cũng luôn nhớ về, biết đến những truyền thống đó. Bài thơ đã cho chúng ta cái nhìn chân thực về một khía cạnh văn hóa trong đời sống. Từ đây, mỗi chúng ta cần tự nhìn nhận lại trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và đưa đất nước phát triển tích cực hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ Ông đồ vẫn giữ nguyên vẹn những ý nghĩa tốt đẹp ban đầu vốn có của nó và để lại nhiều suy ngẫm, ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn Trắc nghiệm kiến thức bài Ông Đồ......................................Như vậy là chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn bài Bài thơ Ông Đồ Vũ Đình Liên - Nội dung bài thơ, Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm. Hy vọng thông qua tài liệu này, các em sẽ nắm được những nội dung chính liên quan tới tác phẩm Ông đồ của Vũ Đình Liên, từ đó dễ dàng triển khai các đề văn liên quan tới tác phẩm này. Chúc các em học các bạn tham khảo thêm đề thi học kì 2 lớp 8 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc của tất cả các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Hóa, Sinh. Hy vọng rằng tài liệu lớp 8 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới
Cùng với các tác giả khác, Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỉ XX, với tác phẩm Ông đồ, ông đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh con người trước những giá trị văn hóa truyền thống đang dần bị mai một, cùng tìm hiểu Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ để có thêm những cơ sở để phân tích bài thơ Ông đồ nhé. Bài viết liên quan Ông đồ Tác giả, thể thơ, bố cục, nhan đề, nội dung, nghệ thuật Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến Dàn ý bài hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Người trong bao Hoàn cảnh sáng tác và tác dụng của hoàn cảnh sáng tác Ngữ Văn lớp 9 Hoàn cảnh sáng tác Khi con tu hú Đề bài Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình LiênHoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ1. Tác giả Vũ Đình Liên- Là nhà giáo nhân dân đồng thời là một nhà thơ- Nhà thơ đầu tiên góp mặt trong phong trào Thơ mới đầu thế kỉ XX 2. Tác phẩm Ông đồ- Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho nền Hán học và chữ nho bị mất vị thế vốn có của nó. Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, nền văn hóa dân tộc có nguy cơ bị sụp đổ. Điều này kéo theo vị thế của các nhà nho cũng bị sụt giảm theo, từ chỗ là "linh hồn" của nền văn hóa truyền thống dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Trong những năm cuối thế kỉ XIX, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ XX, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp Tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, vô tâm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Nội dung chính Nỗi niềm chua xót, đau đớn, ngậm ngùi, luyến tiếc của tác giả về hình ảnh những ông đồ bị thất thế hay đó chính là những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông được lưu truyền qua hàng ngàn năm dần bị mai Để hiểu rõ hơn về bài thơ của Vũ Đình Liên, ngoài việc tìm hiểu về Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ, các em cũng có thể đón đọc thêm một số bài văn khác trong tài liệu bài văn hay lớp 8 chúng tôi đã tổng hợp được Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, Cảm nhận về bài thơ Ông đồ, Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ Ông đồ, Phân tích đoạn thơ "Năm nay đào lại nở... Hồn ở đâu bây giờ?" trong bài thơ Ông đồ, Phân tích giá trị biểu cảm của hai câu thơ sau trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên "Giấy đỏ buồn không thắm. Mực đọng trong nghiên sầu",... Từ khoá liên quan hoan canh sang tac bai tho ong do, hoan canh ra doi bai tho ong do cua vu dinh lien, noi dung bai tho ong do,
Câu hỏi Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ Lời giải – Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho nền Hán học và chữ nho bị mất vị thế vốn có của nó. Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, nền văn hóa dân tộc có nguy cơ bị sụp đổ. Điều này kéo theo vị thế của các nhà nho cũng bị sụt giảm theo, từ chỗ là “linh hồn” của nền văn hóa truyền thống dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng đang xem Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ – Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Trong những năm cuối thế kỉ XIX, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ XX, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp Tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, vô tâm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Hoa. Các em cùng tìm hiểu thêm về bài thơ Ông đồ nhé! Nội dung1. Tác giả Vũ Đình Liên2. Giá trị nội dung bài thơ Ông đồ3. Cảm nhận bài thơ Ông đồ 1. Tác giả Vũ Đình Liên a. Cuộc đời – Vũ Đình Liên 1913 – 1996. – Quê quán Quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội. – Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới. b. Sự nghiệp văn học – Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học. – Tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc… – Phong cách sáng tác Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng. 2. Giá trị nội dung bài thơ Ông đồ Bài thơ Ông đồ với hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, thể hiện sâu sắc với tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm thương cảm, nuối tiếc của tác giả với nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Giá trị nghệ thuật bài thơ Ông đồ – Thể thơ 5 chữ, kết hợp với ngôn ngữ bình dị và súc tích – Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi – Kết cấu độc đáo, đầu cuối tương ứng – Sử dụng biện pháp nhân hóa kết hợp với việc lựa chọn hình ảnh giản dị nhưng mang tính biểu tượng Theo dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lui vào dĩ vãng mịt mờ, để lại cho con người bao nỗi niềm tiếc nuối. Nhất là khi những vẻ đẹp tài hoa một thời chỉ còn vang bóng. Cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy, bài thơ Ông Đồ thể hiện một hoài niệm day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp tàn lụi. Bài thơ là tấm gương phản chiếu cho hồn thơ giàu lòng thương người và hoài cổ của Vũ Đình Liên. Được ra đời trong phong trào Thơ mới, nhưng bài thơ thoát khỏi hai trục cảm xúc chính thời bấy giờ là tình yêu và thiên nhiên. Trong lúc những nhà thơ lãng mạn đang chìm đắm trong cái tôi cá nhân, muốn vẽ nên hiện thực mà họ muốn có, say sưa trong mộng ảo thì Vũ Đình Liên – một trí thức tây học trong lúc sững người, ngoảnh đầu quay lại phía sau đã bất chợt nhận ra “cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời”. Ông đồ – hình ảnh cuối cùng của nền Nho học đã từng tồn tại trong suốt một ngàn năm phong kiến Việt Nam. Sự trượt dốc của nền Nho học đã kéo theo cả một lớp người trở thành nạn nhân đau khổ. Ông đồ của Vũ Đình Liên là một chứng tích cho một vẻ đẹp không bao giờ trở lại. Là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người và vì thế chưa mất đi hoàn toàn, nhất là đối với những con người có tâm trạng hoài niệm cho vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao quý không còn vị trí, phải ra tận vỉa hè, đường phố, đã trở thành một món hàng… con người ta mới thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời. Tâm sự ấy đã được thể hiện trong bài thơ tạo nên sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua. Ở đó là những hình ảnh, ấn tượng đã hằn sâu trong kí ức của chàng thanh niên còn rất trẻ. Là sự tuần hoàn của hoa đào, của ông đồ, của mực tàu, giấy đỏ tạo nên một nét riêng thiêng liêng của không gian văn hoá dân tộc khi Tết đến, xuân về. Nhưng ta không khỏi chạnh lòng trước cảnh ông đồ phải sống lay lắt trên con đường mưu sinh của mình. Vẻ già nua đáng thương hay là đạo học sắp suy tàn? Trớ trêu thay, nơi ông có thể níu giữ vẻ đẹp văn hoá, nơi ông có thể kiếm sống lại là “bên phố đông người qua”. Hình bóng lẻ loi, cô độc của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng. Trong dòng đời hối hả trôi, hiện lên hình ảnh ông đồ đang gò trên từng con chữ tài năng và tâm huyết của một đời người ngay giữa chợ đời Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay. Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự chống chọi vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên khi ngày đã sắp tàn. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới đau đớn làm sao. Trong từng người ấy, có ai thật sự cảm thấy xót xa cho sự xuống cấp thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần được đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất? Dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày Tết và nét chữ “như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhưng tránh sao khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? Nhưng cái danh dự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu. Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng “Mỗi năm mỗi vắng”. Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Và càng đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ tư thì còn lại cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh lạnh lẽo Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay. Bằng hi vọng mong manh còn lại, chút gắng gỏi vì miếng cơm manh áo, ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi đợi. Nhưng đáp lại sự đợi chờ vô vọng đó là những dáng tấp nập qua lại của mọi người, hờ hững, quên đi sự hiện diện của ông. Giữa cái ồn ào, náo động xung quanh là bóng dáng cô độc của ông đồ. Sự đối lập giữa ông đồ và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm. Giữa không gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư có khác chăng Nguyễn Khuyến trước kia “tựa gối ôm cần lâu chẳng được”. Từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi trên giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho con người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương tri của mỗi người. Không gian hoang vắng đến thê lương. Bất chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của Yến Lan trong Bến My Lăng “Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách”. “Lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm đẫm nỗi buồn. “Lá vàng rơi”, cũng như số phận hẩm hiu của ông đồ đã đến hồi kết thúc. Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 8, Ngữ Văn 8
Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm NHỮNG BÀI VĂN MẪU HAY khác tại đây => Văn Mẫu Cùng với các tác giả khác, Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỷ 20, với tác phẩm Ông đồ, ông đã gióng lên hồi chuông cảnh báo mọi người về những giá trị văn hóa. Truyền thống đang dần bị mai một, hãy cùng tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ để có thêm cơ sở phân tích bài thơ Ông đồ nhé. Chủ đề Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên Hoàn cảnh sáng tác bài hát Ông đồ Phân công– Tác giả Vũ Đình Liên+ Đồng thời là nhà giáo của nhân dân, đồng thời là nhà thơ.+ Là nhà thơ đầu tiên tham gia phong trào Thơ mới đầu thế kỉ XX.– Ảnh minh họa Mr+ Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hoá phương Tây tràn vào Việt Nam làm cho Nho học và Nho giáo mất dần vị trí vốn có. Chế độ thi cử phong kiến bị xóa bỏ, nền văn hóa dân tộc có nguy cơ sụp đổ. Điều này khiến vị thế của nhà Nho ngày càng giảm sút, từ chỗ là “linh hồn” của văn hóa truyền thống dân tộc trở nên lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng bóng.+ Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ Cuối thế kỷ 19, hình ảnh những ông đồ già với mực Tàu, giấy đỏ dập dìu nét chữ tươi tắn trên vỉa hè phố phường Hà Nội tấp nập người mua. Tuy nhiên trong tâm trí nhà thơ, cho đến đầu thế kỷ XX, những hình ảnh đẹp đẽ ấy đã dần biến mất, cố nhân vẫn còn đó mỗi dịp Tết đến mà thay vào đó là sự thờ ơ, vô cảm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Hoa.+ Nội dung chính Sự chua xót, đau xót, ngậm ngùi, hoài niệm của tác giả về hình ảnh những người yêu tộc đã mất hay đó là những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của ông cha ta lưu truyền qua bao thế hệ. ngàn năm dần biến mất. ——————KẾT THÚC——————- Để hiểu rõ hơn về bài thơ Vũ Đình Liên, ngoài việc tìm hiểu về Hoàn cảnh sáng tác bài hát Ông đồbạn cũng có thể đón đọc một số bài viết khác trong tài liệu bài văn hay lớp 8 Chúng tôi đã tổng hợp Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, Bình luận về bài thơ Ông đồPhân tích hình tượng ông đồ trong bài thơ Ông đồ, Phân tích đoạn thơ “Năm nay đào lại nở … Hồn nay ở đâu?” trong bài thơ Ông đồPhân tích giá trị biểu cảm của hai câu thơ sau trong bài thơ “Trang giấy đỏ buồn không sâu Mực còn lại trong nghiên”, … Các từ khóa liên quan Chào mừng đến với bữa tiệc tiếp theo hoan nghênh trận chung kết do Vũ Đình Liên, nói về nội dung tho xin do, Thông tin cần xem thêm Video về Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên Wiki về Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên [rule_3_plain] Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên [rule_1_plain] Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên [rule_2_plain] Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên [rule_2_plain] Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên [rule_3_plain] Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên [rule_1_plain] Bạn thấy bài viết Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên bên dưới để có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Nguồn Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội là một trường dân lập, thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bằng của Trường nằm trong hệ thống văn bằng quốc gia. Ngày 15/09/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 750/QĐ-TTg về việc đổi tên trường thành Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội